Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức trò chơi vận động trong giờ học GDTC cho học sinh Lớp 10 trường THPT Gia Bình 1

docx 42 trang Thanh Trang 11/05/2025 220
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức trò chơi vận động trong giờ học GDTC cho học sinh Lớp 10 trường THPT Gia Bình 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_to_chuc_tro_choi_van_dong_trong_gio_ho.docx

Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức trò chơi vận động trong giờ học GDTC cho học sinh Lớp 10 trường THPT Gia Bình 1

  1. SỞ GD - ĐT BẮC NINH TRƯỜNG THPT GIA BÌNH SỐ 1 SÁNG KIẾN ĐỀ NGHỊ, ĐÁNH GIÁ Ở CẤP: CƠ SỞ TÊN SÁNG KIẾN “Tổ chức trò chơi vận động trong giờ học GDTC cho học sinh lớp 10 trường THPT Gia Bình 1.” Tác giả sáng kiến: TRẦN THỊ GIỚI. Bộ môn (chuyên ngành): THỂ DỤC. Trình độ chuyên môn : đại học. Chức vụ : Giáo viên. Đơn vị công tác: TRƯỜNG THPT GIA BÌNH SỐ 1. Bắc Ninh, tháng 02 năm 2023.
  2. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Cấp cơ sở đơn vị trường THPT Gia Bình 1. Kính gửi: Hội đồng sáng kiến cấp cơ sở. 1. Tên sáng kiến: “Tổ chức trò chơi vận động trong giờ học GDTC cho học sinh lớp 10 trường THPT Gia Bình 1.”. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục. 3. Tác giả sáng kiến: - Họ tên: Trần Thị Giới. - Sinh ngày 26-12-1977. - Cơ quan, đơn vị: Trường THPT Gia Bình 1. - Địa chỉ: Nhân Hữu – Nhân Thắng – Gia bình – Bắc Ninh. - Điện thoại: 0704124042. - Email: Gioilinhbn@gmail.com 4. Các tài liệu kèm theo: - Thuyết minh mô tả giải pháp và kết quả thực hiện sáng kiến. Gia Bình, ngày 04 tháng 2 năm 2023 Tác giả sáng kiến (Chữ ký và họ tên) Trần Thị Giới
  3. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “Tổ chức trò chơi vận động trong giờ học GDTC cho học sinh lớp 10 trường THPT Gia Bình 1”. 2.- Sáng kiến được áp dụng lần đầu: thực hiện taị trường THPT Gia Bình 1- phạm vi 2 lớp 10 trường THPT Gia Bình 1, tháng 3 năm 2022. 3. Các thông tin cần bảo mật (nếu có): không. 4. Mô tả các giải pháp cũ thường làm: - Thực tế là các trò chơi còn nghèo nàn, địa điểm vui chơi cũng như điều kiện về vật chất còn hạn hẹp thiếu thốn. Giáo viên soạn giảng theo phân phối chương trình do tổ và đồng thời đánh giá học sinh theo tiêu chí thống nhất, qua thực tế giảng dạy và quan sát cho thấy lượng vận động của học sinh thấp, lười vận động, chưa tạo được sự hứng thú và chưa phát huy được lượng vận động, chưa chú trọng và phát huy được năng lực hoạt động vận động, tổ chức sáng tạo các trò chơi trong giờ học và trong các hoạt động tập thể. - Về tư tưởng: Trong thực trạng XH hiện nay môn TD đánh giá chưa đúng mức nên HS còn lơ là chưa tích cực tập luyện. 5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến: - Muốn nâng cao giờ học GDTC cho học sinh lớp 10 trường THPT Gia Bình 1, tôi thấy sự cần thiết phải áp dụng các giải pháp tổ chức trò chơi vận động trong trong sáng kiến và đã tìm ra một số trò chơi một số dạng trò chơi cho học sinh . + Trò chơi phát triển trí tuệ là một trò chơi có luật, có tác dụng thúc đẩy hoạt động trí tuệ của người để giải quyết các tình huống xảy ra trong trò chơi
  4. + Trò chơi vận động: Đây là loại trò chơi nhằm hình thành và phát triển thể lực của học sinh. + Trò chơi lắp ghép xây dựng: Là trò chơi khi đứa trẻ phản ánh hoạt động xây dựng của xã hội người lớn như: xây dựng nhà cửa, lâu đài, công viên, kho tàng, trường học, +Trò chơi dân gian: là loại trò chơi có từ rất lâu, nó phản ánh đời sống tâm lý, thiên nhiên của từng dân tộc nhằm giáo dục, xây dựng nhân cách văn hoá dân tộc cho các em học sinh. 6. Mục đích của giải pháp sáng kiến: Mục đích cơ bản là giúp học sinh tổ chức những hoạt động của mình, thông qua trò chơi. Ở đây, học sinh có thể lập kế hoạch bàn những biện pháp tổ chức thực hiện nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện. Nhờ đó, giáo dục cho học sinh nhiều nét tính cách, phẩm chất, nhân cách tích cực. - Tìm ra một số trò chơi có hiệu quả nâng cao lượng vận động cho các em trong giờ học GDTC. - Giúp các em có hứng thú học tập và tập luyện tốt hơn với môn học nói riêng và môn GDTC nói chung. Từ đó giúp các em nâng cao thành tích, tinh thần hoạt động và nâng cao hiệu quả giáo dục thể chất cho các em, giúp các em có được một sức khỏe cường tráng trong học tập cũng như trong lao động được tốt hơn. Đồng thời làm cho giờ học thêm sinh động nâng cao hiệu qủa giờ học, đáp ứng nhu cầu của công tác huấn luyện phục vụ thi đấu và phục vụ cho phong trào giáo dục thể chất ở nhà trường trong giai đoạn hiện nay. 7. Nội dung: 7.1. Thuyết minh giải pháp mới hoặc cải tiến: Để nghiên cứu nội dung hoạt động vui chơi và xây dựng thiết kế một số trò chơi cho học sinh trong các giờ chơi và hoạt động tập thể nhằm nâng cao hiệu quả
  5. giáo dục với các phương pháp: Phương pháp thu thập và nghiên cứu tài liệu. Phương pháp điều tra. Phương pháp quan sát. Phương pháp thống kê toán học. * Kết quả của sáng kiến: Sau khi áp dụng sáng kiến vào giảng dạy, tôi nhận thấy lượng vận động và cá hoạt động trong giờ học GDTC của các em đã được thực sự lôi cuốn, hứng thú và tích cực, tự giác trong học tập và rèn luyện. - Nâng cao trình độ thể lực, hình thành được các năng lực chuyên môn và năng lực lối sống, tăng hiệu quả giáo dục thể chất giúp các em có được cơ thể cường tráng khỏe mạnh. - Nâng cao thành tích giờ học GDTC. - Tạo được hứng thú cho học sinh làm cho giờ học thêm sinh động và hấp dẫn. + Thông qua giờ chơi và hoạt động tập thể đã góp phần giáo dục nhân cách cho học sinh, giáo dục tinh thần đoàn kết, sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong học tập . Hoạt động vui chơi trong giờ chơi và hoạt động tập thể đã góp phần không nhỏ trong việc động viên các em học tập tốt hơn cho không khí học tập thêm sôi nổi và đạt kết quả cao hơn. Cụ thể: -Trước thực nghiệm: Lớp Sĩ số Có hứng thú, Không hứng Kết quả kiểm tra năng lực tích cực tham thú, tích cực lượng vận động của HS gia các tham gia các HĐVĐ HĐVĐ =5(Đ) SL % SL % SL % SL % 10a2 44 20 45 24 55 19 43 25 57 10a3 43 19 44 24 56 15 35 28 65 - Sau thực nghiệm:
  6. Lớp Sĩ số Có hứng thú, Không hứng Kết quả kiểm tra năng lực tích cực tham thú, tích cực lượng vận động của HS gia các tham gia các HĐVĐ HĐVĐ =5(Đ) SL % SL % SL % SL % 10a2 44 40 91 4 9 2 5 42 95 10a3 43 37 86 6 14 5 12 38 88 7.2. Thuyết minh về phạm vi áp dụng sáng kiến: Để thực hiện thành công sáng kiến kinh nghiệm tôi cần có: - Đối tượng là 2 lớp học sinh khối 10 trường THPT Gia Bình 1. - Giáo viên, học sinh nhận thức đầy đủ vai trò của các bài tập, các trò chơi từ đó mới nâng cao được thành tích hiệu quả giờ dậy. 7.3. Thuyết minh về lợi ích kinh tế, xã hội của sáng kiến: Giải pháp của đề tài có tác dụng tích cực đến quá trình giảng dạy và huấn luyện của bản thân. Trình độ thể lực phát triển, hình thành năng lực chuyên môn và năng lực lối sống, kỹ thuật của học sinh được tăng lên; thành tích thi đấu được nâng cao. Vì có giải pháp và thực hiện ngay từ đầu năm học nên bản thân tôi chủ động được việc lựa chọn học sinh đi thi đấu, tiết kiệm được thời gian tập luyện thể lực cũng như hình thành kĩ năng kĩ sảo vận động. * Cam kết: Tôi cam đoan những điều khai trên đây là đúng sự thật và không sao chép hoặc vi phạm bản quyền. Xác nhận của cơ quan Tác giả sáng kiến (Chữ ký, dấu) (Chữ ký và họ tên) Trần Thị Giới MỤC LỤC
  7. Nội dung Trang Phần I. MỞ ĐẦU 1 1. Mục đích của sáng kiến. 1 2.Tính mới và ưu điểm nổi bật của sang kiến 3 3. Đóng góp của SKKN 3 Phần II. NỘI DUNG. Chương I: Khái quát thực trạng vấn đề mà sáng kiến tập trung giải 5 quyết I. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh 6 II.Vai trò của trò chơi trong giờ học 10 III. Tổ chức các hoạt động trò chơi cho học sinh 15 Chương II. Các biện pháp sử dụng 16 I. Phương pháp thu thập và nghiên cứu tài liệu. 17 II. Phương pháp phỏng vấn: Sử dụng phiếu điều tra. 18 III. Phương pháp quan sát. 20 IV. Phương pháp thống kê toán học 23 Chương III: Kiểm chứng các giải pháp. 26 Phần III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 32 Phần IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
  8. QUY ƯỚC VIẾT TẮT TDTT: Thể dục thể thao. GDTC: Giáo dục thể chất. TCVĐ: Trò chơi vận động. THPT: Trung học phổ thông. NXB: Nhà xuất bản Đ: Đạt CĐ: Chưa đạt
  9. PHẦN I: MỞ ĐẦU 1.Mục đích của sáng kiến. Trong những năm gần đây, đất nước ta đang trên đà phát triển cùng với xu thế phát triển chung của thế giới. Trong công cuộc đổi mới không thể không kể đến đổi mới giáo dục và đào tạo, bởi đổi mới giáo dục và đào tạo là tạo ra nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước. Hiện nay, mục tiêu giáo dục ở trường THPT đã được xác định rõ ràng đó là: Giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ , thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh việc cung cấp cho học sinh những vốn trí thức có hệ thống nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội, nhà trường còn phải giáo dục cho học sinh về mọi mặt để các em phát triển toàn diện. Như chúng ta đã biết, trò chơi không phải là một thứ mua vui đơn thuần giải trí, mà nó còn có ý nghĩa giáo dục và giáo dưỡng rất quan trọng góp phần tích cực vào việc giáo dục cho học sinh về mọi mặt như “Đức – Trí - Thể - Mỹ”. Trong xã hội nói chung và trường học nói riêng, chơi là một nhu cầu tự nhiên trong sinh hoạt hàng ngày, nó là một hoạt động tự do, bất định không gò ép hoặc bắt buộc. Đây là một đặc trưng tạo nên sự hấp dẫn, sự thu hút bởi vì không ai giám khẳng định diễn biến và kết quả cuối cùng của mỗi trò chơi. Tuy nhiên, trò chơi là một hoạt động có quy tắc. Dù trò chơi có đơn giản bao nhiêu cũng phải có quy tắc nhất định và vì vậy sẽ tạo nên sự bình đẳng giữa những người tham gia trò chơi. Người ta thường nhắc đến các luật chơi, do đó mọi hành động của các em khi tham gia trò chơi thường chịu sự chỉ đạo và ràng buộc bởi những quy tắc nhất định đối với các em, trò chơi tác động trực tiếp đến trí tuệ, tình cảm và thể lực của mỗi em, góp phần tạo nên bầu không khí đoàn kết, thân ái trong tập thể. Chơi là để giải toả những căng thẳng về tinh thần, chơi là để phát triển tâm hồn và thể chất, chơi là để học làm người, để phát triển nhân cách một cách toàn diện. 1
  10. Ở lứa tuổi các em học là hoạt động chủ đạo nhưng hoạt động vui chơi vẫn giữ một vị trí quan trọng, nó trở thành hoạt động không thể thiếu ở các em. Mặt khác, việc tổ chức hoạt động vui chơi cho các em sẽ tạo nên một tập thể lành mạnh, góp phần rất lớn đối với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Có thể nói, bản chất của trò chơi theo ý nghĩa sinh học là sự điều hoà, cân bằng nguồn năng lượng dư thừa được sản sinh trong cơ thể, vì thế có người cho rằng “chơi là sống”. Mỗi trò chơi có một tác dụng khác nhau, song nhìn chung trò chơi giúp các em rèn luyện những đức tính quý báu: Thật thà, lễ phép, dũng cảm, cần cù rèn luyện khả năng quan sát, óc phán đoán, tăng cường thể lực, sức nhanh, sức mạnh, sức bền, tính phản xạ Trò chơi còn giáo dục ý thức tổ chức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể, đồng thời trò chơi còn giúp các em hoàn thiện các kỹ năng ứng dụng học vấn vào cuộc sống hàng ngày. “Học mà chơi, chơi mà học” là một quan điểm rất đúng đắn trong quá trình hướng dẫn và tổ chức chơi cho các em. Hiệu quả của trò chơi còn phụ thuộc vào khả năng bản thân người hướng dẫn. Không nên dừng lại ở mức độ giải trí đơn thuần mà phải xem trò chơi thực sự là một phương tiện giáo dục có hiệu quả, dễ tiếp thu nhất, góp phần thực hiện trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục trong nhà trường. Trò chơi chính là sự bổ trợ tích cực, cơ bản cho giờ chơi và hoạt động tập thể. Qua đó, thành tích và kĩ năng được tăng lên. Nhiều trò chơi tốt, tích cực còn có tác dụng hạn chế và đi tới bỏ xa những trò chơi không lành mạnh, mất vệ sinh, phản tác dụng giáo dục. Trên thực tế hiện nay, hoạt động vui chơi cho các em ở trường nói chung và trong giờ thể dục nói riêng vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Xuất phát từ những lý do đã nêu, đồng thời để góp phần hỗ trợ và củng cố cho chơi và hoạt động tập thể thêm phong phú và có hiệu quả. Tôi mạnh dạn chọn đề tài này với chủ đề: “Tổ chức trò chơi vận động trong giờ học GDTC cho học sinh lớp 10 trường THPT Gia Bình 1.” 2. Tính mới và ưu điểm nổi bật của sáng kiến. 2
  11. - Để nghiên cứu nội dung hoạt động vui chơi và xây dựng thiết kế một số trò chơi cho học sinh trong các giờ chơi và hoạt động tập thể nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục với các phương pháp, giải pháp sau: Phương pháp thu thập và nghiên cứu tài liệu. Phương pháp điều tra. Phương pháp quan sát. Phương pháp thống kê toán học. - Ưu điểm nổi bật: + Tìm ra được một số trò chơi gây hứng thú cho các em trong mỗi tiết học. + Giúp các em có hứng thú, có ý thức tự học tập, tự rèn luyện thể lực tốt hơn để từ đó thu hút các em thích chơi và tham gia hoạt động tập thể, đây cũng là mục tiêu quan trọng của đề tài nghiên cứu. + Tổ chức các hoạt động vui chơi cho học sinh và vai trò của các hoạt động vui chơi đối với sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ, ý nghĩa, vai trò của nó trong quá trình giáo dục học sinh. + Tạo được hoạt động vui chơi cho học sinh trong giờ học giáo dục thể chất. + Đề xuất một số nội dung hoạt động và thiết kế một số trò chơi cho học sinh trong mỗi giờ học giáo dục thể chất phù hợp với điều kiện nhà trường và nhu cầu của học sinh hiện nay. 3. Những đóng góp của sáng kiến. - Hoạt động vui chơi là một hoạt động mang tính giáo dục cao thông qua các hoạt động. Nghiên cứu nội dung hoạt động vui chơi và xây dựng thiết kế một số trò chơi cho học sinh trong các giờ chơi và hoạt động tập thể nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục. Với những vấn đề trên, tôi lĩnh hội và phát huy kiến thức được học tập trong nhà trường và bạn bè đồng nghiệp để tạo không khí học tập nhẹ nhàng, thoải mái, gây hứng thú cho các em trong mỗi tiết học với quan điểm “học mà chơi, chơi mà học” để từ đó thu hút các em thích chơi và tham gia hoạt động tập 3
  12. thể, đây cũng là mục tiêu quan trọng của đề tài nghiên cứu: Hoạt động vui chơi của học sinh lớp 10 trường THPT Gia Bình1. Phần II. NỘI DUNG 4
  13. Chương I: Thực trạng tổ chức trò chơi vận động trong giờ học GDTC ở nhà trường. - Qua thực tế giảng dạy và quan sát cho thấy lượng vận động của học sinh thấp, lười vận động, chưa tạo được sự hứng thú và chưa phát huy được lượng vận động, chưa chú trọng và phát huy được năng lực hoạt động vận động, tổ chức sáng tạo các trò chơi trong giờ học và trong các hoạt động tập thể. - Về tư tưởng: Trong thực trạng XH hiện nay môn TD đánh giá chưa đúng mức nên HS còn lơ là chưa tích cực tập luyện. Hiện nay nhiệm vụ của nhà trường là giáo dục học sinh phát triển một cách toàn diện, các chủ nhân của thế kỉ XXI phải là những con người thông minh, dí dỏm, hoạt bát, có ánh sáng trí tuệ, có tâm hồn trong sáng, lành mạnh và một thân thể cường tráng Con người của văn hoá thời hiện đại, văn minh không chỉ giỏi một lĩnh vực mà còn phải là con người toàn diện, có năng lực, có sức khoẻ, luôn luôn vận động phù hợp với sự phát triển của đất nước. Chính vì thế mà giáo dục được đặt lên hàng đầu, toàn xã hội tôn vinh nghề giáo và cũng đặt cho chúng ta một nhiệm vụ to lớn là khâu đột phá đưa đất nước ta đi vào kỷ nguyên mới, sánh vai cùng với các nước trên thế giới. Trong các kỳ đại hội Đảng đã đề ra “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Bởi “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” Giáo dục và đào tạo cho thế hệ trẻ hôm nay một cách toàn diện chính là chúng ta đã đặt nền móng vững chắc cho toàn nhà tri thức trong tương lai và với kết quả rèn luyện học tập của các em chưa đạt được yêu cầu của nhà trường, của bộ môn về lượng vận động trong giờ học, cụ thể: Lớp Sĩ số Có hứng thú, Không hứng Kết quả kiểm tra năng lực tích cực tham thú, tích cực lượng vận động của HS 5
  14. gia các trò tham gia các =5(Đ) chơi trò chơi SL % SL % SL % SL % 10a2 44 20 45 24 55 19 43 25 57 10a3 43 19 44 24 56 15 35 28 65 Từ những thực trạng trên, tôi thấy việc thực hiện sáng kiến này rất cần thiết cho các em có được lượng vận động, tạo hứng thú cho các em hoạt động vận động trong giờ học GDTC. Chính vì vậy, trước khi đi vào tổ chức các trò chơi vận động cho các emtrong giờ học GDTC tôi phải nghiên cứu về đặc điểm, vai trò và cách tổ chức trò chơi, cụ thể như sau: I. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÂM SINH LÝ CỦA HỌC SINH THPT, CÓ ẢNH HƯỞNG ĐỂN HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI. K.D.Uinxki đã từng nói: “Các bạn hãy nghiên cứu những quy luật của các hiện tượng tâm lý mà các bạn muốn điều khiển và các bạn hãy hành động căn cứ trên những quy luật này và những hoàn cảnh mà các bạn muốn vận dụng chúng vào đó để tổ chức cho học sinh THPT vui chơi và thấy được tầm quan trọng của hoạt động vui chơi tác động tới sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ thì trước tiên chúng ta phải tìm hiểu một số đặc điểm tâm sinh lý của các em có ảnh hưởng đến hoạt động vui chơi. Học sinh THPT ở độ tuổi 15 đến 18 tuổi, ở lứa tuổi này bản thân mỗi đứa trẻ có sự tích luỹ kinh nghiệm sống nhất định và có những đặc điểm về thể lực, khả năng vận động, khả năng hoạt động trí tuệ, hứng thú tình cảm cũng như vốn tri thức tích luỹ được Vì vậy, để giáo dục trẻ có hiệu quả, thì việc nắm vững những đặc điểm chung về tâm sinh lý lứa tổi này là rất quan trọng. 1. Một số đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT. 6
  15. Cơ thể của trẻ em là nền tảng vật chất và trí tuệ tâm hồn, nền tảng có vững thì trí tuệ và tình cảm mới có khả năng phát triển tốt “Thân thể có khoẻ mạnh thì chứa đựng một tinh thần sáng suốt” ngược lại “Tinh thần sáng suốt thì cơ thể có điều kiện phát triển” Ở lứa tuổi này, cơ thể của các em đang có sự phát triển và hoàn thiện dần về cấu trúc, chức năng. Thể lực của các em phát triển tương đối đồng đều, chiều cao mỗi năm chỉ trên dưới 4 cm trọng lượng cơ thể mỗi năm chỉ tăng khoảng 3kg. Bộ xương đang ở giai đoạn cứng dần nhưng còn nhiều mô sụn, quá trình hoá xương chưa kết thúc và đang phát triển mạnh mẽ, vì vậy cần phải chú đến tư thế đi, đứng , nghỉ, chạy nhảy của các em đề phòng cong vẹo, gù xương ở trẻ, tránh để các em mang vác vật quá nặng, tránh để các em viết lâu, làm các việc quá tỉ mỉ gây mệt mỏi cho các em. Nói đến đặc điểm thể chất học sinh không thể không nhắc đến đặc điểm của hệ thần kinh. Hệ thần kinh cảu các em trong giai đoạn này đang phát triển mạnh. Bộ óc của các em đang phát triển về khối lượng, trọng lượng và cấu tạo. Đến 15, 18 tuổi hệ thần kinh của trẻ căn bản được hoàn thiện về chất lượng và sẽ được giữ lại trong suốt cuộc đời. Điều này tạo điều kiện cho các phản xạ có điều kiện nhanh và nhiều. Tuy nhiên, ở giai đoạn này khả năng ức chế của hệ thần kinh còn yếu, vì thế ta cần phải chú ý đến đặc điểm này để giúp trẻ hình thành tính tự chủ, lòng kiên trì, sự kìm hãm của bản thân trước những kích thích của hoàn cảnh xung quanh, biết giữ trật tự nơi công cộng và trong lớp học. Mặt khác cũng không được doạ nạt các em vì làm như thế không những làm tổn thương đến tình cảm mà còn gây tác hại đến sự phát triển hệ thần kinh và bộ óc của các em. Trong khi đó, nhu cầu trao đổi chất và năng lượng của trẻ lại lớn dần đến các cơ quan phải tăng cường hoạt động làm cho các em chóng mệt mỏi. Do đó, tổ chức hoạt động vui chơi phải chú ý sao cho phù hợp với đặc điểm sinh lý của các em. 2. Một số đặc điểm tâm lý. 2.1. Đặc điểm của quá trình nhận thức: 7
  16. Nói đến đặc điểm tâm lý của học sinh THPT thì vấn đề đầu tiên cần phải nói đến đó là quá trình nhận thức của các em. Quá trình nhận thức giúp các em có những nhận thức nhất định về thế giới xung quanh, về bản thân mình, từ đó tỏ thái độ và có hành vi hoạt động tham gia vào mối quan hệ xã hội. - Về tri giác: Tri giác của các em còn mang tính chất đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và mang tính không chủ động. Do đó các em còn phân biệt các đối tượng còn không chính xác, dễ mắc sai lầm có khi còn lẫn lộn. Các em thích quan sát những gì sinh động những đặc điểm, những sự vật trực tiếp gây cho các em cảm xúc. Ngoài ra tri giác của các em còn hạn chế và khả năng lập kế hoạch chưa tốt. - Về trí nhớ: Các em có khả năng ghi nhớ tốt, đặc biệt là ghi nhớ máy móc. Trẻ dễ nhớ những gì tác động trực tiếp đến tri giác của trẻ và nhớ lâu những gì chúng đã tiến hành hành động trên nó. Do đó trẻ thích tham gia những hoạt động mang tính thực tiễn có tính chất vận động. - Về tư duy: Tư duy của trẻ bậc thcs đang chuyển dần từ trực quan cụ thể sang trừu tượng khái quát. Học sinh trường ở từng khối lớp có khả năng phân biệt những dấu hiệu, những khía cạnh khác nhau của đối tượng dưới dạng ngôn ngữ. Tóm lại, đặc điểm tư duy của trẻ bậc THPT không có ý nghĩa tuyệt đối mà có ý nghĩa tương đối. 2.2-Đặc điểm nhân cách của học sinh THPT. Mặc dù sự phát triển nhân cách của học sinh THPT không mang tính chất “đột biến” nhưng trong giai đoạn này sự hình thành nhân cách của các em diễn ra khá rõ nét. Khi bước chân tới trường trẻ được gia nhập một cuộc sống mới: tập thể lớp học. Tất cả đều có sự ảnh hưởng đến sự hình thành quan hệ mới, hình thành thái độ với người khác đối với tập thể và đối với học tập, hình thành các phẩm chất của ý trí, tình cảm và đạo đức ở học sinh . *Về tính cách: 8
  17. Phần lớn học sinh có nhiều nét tính cách tốt như: lòng vị tha, tính ham hiểu biết, tính hồn nhiên, tính chân thực, lòng thương người hồn nhiên trong quan hệ với người lớn, với thầy cô, bạn bè, hồn nhiên nên rất cả tin, tin vào sách vở, tin vào người tốt, tin vào khả năng của bản thân. Tất nhiên niềm tin này còn cảm tính, chưa có lý trí soi sáng. Chúng ta có thể tận dụng điều này để giáo dục các em, sao cho các em dần dần hết “ngây” nhưng còn giữ được chất “thơ”. Bên cạnh đó tính hay bắt chước cũng là một đặc điểm quan trọng của lứa tuổi này. Tính bắt chước chính là con dao hai lưỡi, bởi trẻ bắt chước cái tốt cũng lắm mà cái xấu cũng nhiều. Ngoài ra tính cách của các em cũng có nhược điểm là bướng bỉnh và bất thường cho nên chúng ta cũng phải chú ý đến điều này để giáo dục các em. *Về nhận thức: Ở lứa tuổi này nhận thức của học sinh rất rõ nét. Nhu cầu nhận thức chính là một trong nhu cầu tinh thần. Nhu cầu này đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển trí tuệ. Một đặc điểm quan trọng là nhu cầu nhận thức của trẻ ở giai đoạn này thường gắn liền với nhu cầu vui chơi, nhu cầu hoạt động tập thể trường lớp xã hội. *Về tình cảm Các em rất dễ xúc động, sống nhiều trong tình cảm. Tình cảm thẩm mỹ và tình cảm trí tuệ đang phát triển. Tình cảm của các em dễ nảy sinh nhưng chưa bền vững. *Về hứng thú: Ở lứa tuổi này các em chưa có hứng thú chuyên biệt với từng bộ môn, từng hoạt động, điều này dẫn đến các em học vì điểm. Đối với vui chơi các em thường hứng thú với hoạt động tập thể có quy tắc đòi hỏi sự cố gắng, sự khéo léo nhất định, hay những hoạt động vui chơi giàu trí tưởng tượng, luôn vận động. *Về năng khiếu và sự phát triển của năng khiếu: 9
  18. Học sinh thường bộc lộ năng khiếu thơ, ca, nghệ thuật Việc phát triển những khả năng của các em trong lĩnh vực này là rất quan trọng và cần thiết để bồi dưỡng phát triển năng khiếu cho các em. Trò chơi sẽ đóng góp một phần không nhỏ trong việc phát triển và rèn luyện tài năng nơi các em. Tóm lại, ở lứa tuổi này các em có những biến đổi sâu sắc cả về tâm sinh lý, nó mang đặc trưng riêng cho lứa tuổi này. Để tổ chức các hoạt động học tập cũng như các hoạt động vui chơi cho các em có hiệu quả thì người giáo viên cần phải nắm vững những đặc điểm cơ bản của lứa tuổi này để từ đó tổ chức hoạt động cho phù hợp với tâm sinh lý của các em. II- VAI TRÒ CỦA TRÒ CHƠI ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CỦA HỌC SINH THPT. 1. Vai trò của hoạt động trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Về vai trò của hoạt động đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của lý luận và thực tiễn đã khẳng định “Cuộc sống của con người được tạo bởi dòng các hoạt động” hay nói cách khác hoạt động chính là phương thức tồn tại của con người. Năng lực của trẻ được hình thành và bộc lộ trong quá trình hoạt động của các em. Khi ta chưa xem xét, chưa quan sát hoạt động của trẻ thì ta chưa thể nói một em nào đó có hay không có năng lực đối với loại hình hoạt động đó. Ví dụ ta không thể nói về năng lực âm nhạc của một em nếu em chưa học nhạc dù là hình thức sơ đẳng nhất chỉ có hoạt động học tập được tổ chức đúng đắn thì ta mới biết em đó có biểu hiện năng lực về mặt nào. 10
  19. Con người sinh ra không có sẵn năng lực đối với một loại hình hoạt động nào đó. Năng lực của con người chỉ được hình thành và phát triển nhân cách con người đặc biệt là khi con người còn ở lứa tuổi thiếu nhi. Hoạt động của trẻ rất phong phú và đa dạng. Các hoạt động này góp phần làm bộc lộ và phát triển những tính cách của trẻ. Do đó, vai trò của giáo viên thể dục là phải lựa chọn xây dựng tổ chức cho các em tham gia nhiều loại hình hoạt động khác nhau, để qua đó các em có điều kiện bộc lộ, hình thành và phát triển năng lực riêng và nhân cách nói chung. 2. Vai trò của hoạt động vui chơi đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của HS. Chơi là hoạt động cần thiết cho mọi người ở mọi lứa tuổi, nhưng đối với trẻ chơi chính là cuộc sống thực của chúng. Không chơi đứa trẻ chỉ tồn tại chứ không phải là sống, do đó ta có thể nói: chơi đóng vai trò rất quan trọng đối với đời sống trẻ, đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của chúng. Đúng như nhà giáo dục vĩ đại Ma-ren- kê đã tổng kết: Trò chơi có một ý nghĩa quan trọng như những hoạt động công tác và phục việc phục vụ của người lớn. Chính vì vậy nên những người lao động tương lai được giáo dục trước hết là lúc chơi. Vậy để thấy rõ được hoạt động vui chơi đối với cuộc sống của trẻ trước hết chúng ta phải biết được thế nào là chơi, hoạt động vui chơi ? * Trò chơi Trong nhà trường hiện nay hoạt động vui chơi không kém phần quan trọng. Các em “Học mà chơi- chơi mà học”. Trò chơi một chủ đề mà nhiều tác giả trong và ngoài nước trên nhiều lĩnh vực khoa học đề cập đến và cũng được nghiên cứu trên nhiều góc độ khác nhau. Nhưng để đi đến một cái chung thì chưa, hay nói một cách khác đi là đẻ hiểu thế nào là trò chơi và đưa ra khái niệm cụ thể thì chưa mà mới chỉ miêu tả hoặc lý giải nó mà thôi. 11
  20. Để một trò chơi diễn ra phải có thời gian và địa điểm cụ thể. Với từng trò chơi nó yêu cầu có không gian và thời gian nhất định có thể là rất rộng mà cũng có thể rất hẹp. Vì trò chơi là một hành động giả định, nằm ngoài cuộc sống bình thường nên không gian và thời gian diễn ra nó cũng phải ở phạm vi riêng. Khi nói “ Trò chơi là một hoạt động vô thường không ai có thể xác định trước diễn biến của nó cũng như kết quả cuối cùng của trò chơi”. Điều này chỉ đúng với trò chơi thể thao, còn trong các trò chơi khác thì chưa hoàn toàn chính xác, ví dụ như trong trò chơi sắm vai thì khi bắt đầu trò chơi, người tham gia đã phần nào biết được diễn biến của trò chơi và kết quả của nó. Tuy nhiên trong khi chơi, luôn có giới hạn giành cho sự sáng tạo của người chơi, đây là một đặc điểm chung của trò chơi. Từ điển tiếng Việt giải nghĩa trò chơi như sau:“ Trò chơi là một loại hình hoạt động, trong các tình huống có điều kiện mà hoạt động đó hướng đến sự tái tạo và lĩnh vực kinh nghiệm xã hội được ấn định trong các phương thức tồn tại của các hoạt động vật chất, trong các đối tượng của khoa học và văn hoá. Qua trò chơi với tư cách là hoạt động thực tiễn xã hội các tiêu chuẩn của cuộc sống và hoạt động của con người được tái tạo việc tuân thủ các tiêu chuẩn đó đảm bảo việc nhận thức và lĩnh hội hiện thực vật chất và xã hội, đảm bảo sự phát triển trí tuệ, tình cảm đạo đức của nhân cách”. Khái niệm này đã khẳng định được bản chất xã hội của trò chơi. Trò chơi được xem là một hoạt động xã hội nó mang tính chất xã hội cả về nguồn gốc ra đời, nội dung và hình thức biểu hiện. Và khái niệm này cũng khẳng định tác động tích cực của trò chơi với sự phát triển nhân cách. Có nhiều trò chơi cụ thể khác nhau, mỗi trò chơi cụ thể lại có những đặc điểm riêng của mình, tuỳ theo góc độ nghề nghiệp, tuỳ theo góc độ quan sát mà các nhà nghiên cứu định ra các tiêu chuẩn khác nhau. * Một số dạng trò chơi cho học sinh . 12
  21. + Trò chơi phát triển trí tuệ là một trò chơi có luật, có tác dụng thúc đẩy hoạt động trí tuệ của người để giải quyết các tình huống xảy ra trong trò chơi nhằm đạt được những nhiệm vụ nhận thức nhất định. + Trò chơi vận động: Đây là loại trò chơi nhằm hình thành và phát triển thể lực của học sinh. + Trò chơi lắp ghép xây dựng: Là trò chơi khi đứa trẻ phản ánh hoạt động xây dựng của xã hội người lớn như: xây dựng nhà cửa, lâu đài, công viên, kho tàng, trường học, +Trò chơi dân gian: là loại trò chơi có từ rất lâu, nó phản ánh đời sống tâm lý, thiên nhiên của từng dân tộc nhằm giáo dục, xây dựng nhân cách văn hoá dân tộc cho các em học sinh. * Hoạt động vui chơi Trong trường hiện nay hoạt động vui chơi không kém phần quan trọng các em được “Học mà chơi, chơi mà học” nếu đến trường chỉ học văn hoá mà không có các hoạt động khác các em sẽ nhanh chóng không phù hợp với lứa tuổi các em và rất sợ khi phải đến trường. Như Bác Hồ đã căn dặn trong thư gửi phụ trách thiếu nhi năm 1946 “Trong lúc học cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần cho chúng học”. Vì vậy trong nhà trường THPT chúng ta phải hết sức chú trọng đến việc tổ chức các hoạt động vui chơi cho các em để các em được mở rộng giao lưu với bạn bè, học hỏi, đoàn kết, thương yêu gần gũi nhau hơn. Hoạt động vui chơi không phải là một khái niệm khoa học với đúng nghĩa của nó vì vui chơi là một hoạt động mang tính tự phát, tự nguyện của con người nhằm thoả mãn nhu cầu sở thích hứng thú, phát triển thể chất, trí tuệ, ý trí, tình cảm của cá nhân. 13
  22. * Theo từ điển tiếng Việt-2000 NXB Đà Nẵng – thì thuật vui chơi được tác các giả giải nghĩa như sau: “Vui chơi là một hoạt động giải trí một cách thích thú”. Hoạt động của trẻ thường có những đặc điểm sau: 1- Hoạt động vui chơi của trẻ là một hoạt động mang tính chất vô tư. Trong khi chơi, đứa trẻ không chú tâm nhằm tới một lợi ích thiết thực nào cả. Chính vì vậy nhiều nhà tâm lý học cho rằng: “Động cơ của hoạt động vui chơi nằm ngay trong quá trình hoạt động chứ không phải nằm ở kết quả, hành động chơi mang kết quả tự do”. 2- Hoạt động vui chơi của trẻ là hoạt động mô phỏng lại cuộc sống của người lớn, mô phỏng lại những mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội. Như vậy, chính các hoạt động vui chơi đã làm nảy sinh trí tưởng tượng của trẻ, kích thích cho trí tưởng tượng phát triển. 3- Hoạt động vui chơi của trẻ không phải là một hành động bắt buộc mà là một hoạt động mang tính tự do. Vui chơi là một hoạt động nhằm tạo ra sản phẩm nên hành động chơi không buộc phải chấm theo phương thức chặt chẽ của hoạt động thực tiễn. 4- Hoạt động vui chơi của trẻ là một hoạt động độc lập và tự điều khiển. Chính tính độc lập và sự tự điều khiển hành vi đó không những cho trẻ niềm hoà hứng và lòng tự tin trong cuộc chơi mà còn giúp cho chúng phát huy khả năng tự lập của mình trong cuộc sống. 5- Hoạt động vui chơi của trẻ là một hoạt động mang tính màu sắc xúc cảm chân thực mạnh mẽ. Như vậy, hoạt động vui chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Mỗi nội dung chơi, trò chơi đều đòi hỏi những điều kiện riêng và tất cả mọi hình thức đều kích thích, đều giúp các em phát hiện ra chính mình và thế giới xung quanh. Điều đáng nói là nhân cách của trẻ muốn được phát triển một cách toàn diện thì những hoạt động của trẻ phải 14