Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng mô hình “Vòng tròn thảo Luận văn chương” vào dạy học đọc hiểu văn bản “Chữ người tử tù”- Nguyễn Tuân (Ngữ văn 10, Kết nối tri thức)

docx 62 trang Thanh Trang 05/01/2025 450
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng mô hình “Vòng tròn thảo Luận văn chương” vào dạy học đọc hiểu văn bản “Chữ người tử tù”- Nguyễn Tuân (Ngữ văn 10, Kết nối tri thức)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_mo_hinh_vong_tron_thao_luan_va.docx

Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng mô hình “Vòng tròn thảo Luận văn chương” vào dạy học đọc hiểu văn bản “Chữ người tử tù”- Nguyễn Tuân (Ngữ văn 10, Kết nối tri thức)

  1. i SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BẮC NINH TRƯỜNG THPT TIÊN DU SỐ 1 SÁNG KIẾN ĐỀ NGHỊ THẨM ĐỊNH, ĐÁNH GIÁ Ở CẤP NGÀNH TÊN SÁNG KIẾN: SỬ DỤNG MÔ HÌNH “VÒNG TRÒN THẢO LUẬN VĂN CHƯƠNG” VÀO DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN “CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ” – NGUYỄN TUÂN Tác giả sáng kiến: Tô Thị Thùy Linh Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THPT Tiên Du số 1 Bộ môn (chuyên ngành): Ngữ văn Tiên Du, tháng 01 năm 2023
  2. ii CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng sáng kiến cấp ngành 1.Tên sáng kiến: Sử dụng mô hình “Vòng tròn thảo luận văn chương” vào dạy học đọc hiểu văn bản “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân. 2.Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy ngữ văn. 3.Tác giả sáng kiến: - Họ và tên: Tô Thị Thùy Linh - Cơ quan, đơn vị: Tổ Ngữ văn – Trường THPT Tiên Du số 1 - Địa chỉ: Thôn Tư Chi – xã Tân Chi – huyện Tiên Du – tỉnh Bắc Ninh. - Điện thoại: 0979353873 - Email: thuylinhsphn@gmail.com Tiên Du, ngày 23 tháng 1 năm 2023 Tô Thị Thùy Linh
  3. iii CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: Sử dụng mô hình “Vòng tròn thảo luận văn chương” vào dạy học đọc hiểu văn bản “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân. 2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Năm học 2022 - 2023 3. Các thông tin cần bảo mật: không. 4. Mô tả các giải pháp cũ thường làm: Dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường hiện nay vẫn còn nhiều giáo viên thiên về giảng – bình, chú trọng việc truyền thụ kiến thức - nội dung bài học mà chưa chú ý đúng mực đến việc hình thành, rèn luyện năng lực để học sinh tự khám phá những tác phẩm khác cùng thể loại. 5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến: Quan điểm đổi mới giáo dục phổ thông 2018: Chương trình giáo dục 2018 “chuyển mạnh [ ] từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học” (Nghị quyết 29/NQ – TƯ). Như vậy, năng lực là một trong hai mục tiêu lớn của đổi mới giáo dục. Chính sự đổi mới này đã đặt ra yêu cầu về các biện pháp dạy học hướng tới tích cực hóa hoạt động của người học. Tầm quan trọng của năng lực đọc hiểu và vị trí của giờ dạy đọc hiểu trong môn Ngữ văn: Năng lực đọc hiểu được Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA) coi là một năng lực thiết yếu cần có đối với mỗi học sinh. Năng lực này đóng một vai trò quan trọng không chỉ trong việc học tập mà còn góp phần vào việc thúc đẩy quá trình phát triển tư duy và bồi đắp tâm hồn của mỗi con người trong suốt cuộc đời. Ở bộ môn Ngữ văn, giờ đọc hiểu văn bản có vị trí đặc biệt quan trọng và chiếm thời lượng khá lớn. Vì thế, giáo viên cần có phương pháp phù hợp để phát huy tốt nhất các năng lực chung và năng lực đặc thù cho học sinh.
  4. iv Tính khả thi của mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” trong dạy học đọc hiểu Ngữ văn: Mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” tập trung vào phản hồi của người đọc (học sinh); được định hướng chủ yếu bởi sự thấu hiểu và những câu hỏi của học sinh; được cấu tạo để phát huy tính độc lập, tính sáng tạo, tính trách nhiệm của học sinh; hình thức thảo luận này có tính chất “mở” và linh hoạt. Việc sử dụng mô hình trên đối tượng học sinh lớp 10 là phù hợp vì hoạt động nhận thức của các em đã phát triển ở trình độ khá cao, có vốn sống và trải nghiệm nhất định, cũng đã có ít nhiều kinh nghiệm làm việc hợp tác trong quá trình học tập. Bởi vậy, sử dụng mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” sẽ tạo được hứng thú cho học sinh trong quá trình tìm hiểu tác phẩm, thúc đẩy học sinh đào sâu suy nghĩ và chia sẻ cảm nhận riêng. Điều này góp phần giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học, năng lực thẩm mĩ, tư duy, sáng tạo, hợp tác 6. Mục đích của giải pháp sáng kiến: Sáng kiến “Sử dụng mô hình “Vòng tròn thảo luận văn chương” vào dạy học đọc hiểu văn bản “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân” nhằm góp phần cải thiện thực trạng dạy học đọc hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân nói riêng và dạy học đọc hiểu thể loại truyện nói chung. Từ đó, hình thành và rèn luyện năng lực đọc hiểu, khả năng tự học cho học sinh. 7. Nội dung: 7.1. Thuyết minh giải pháp sáng kiến: Các giải pháp: Trang bị cho học sinh nền tảng lí luận về mô hình “Vòng tròn thảo luận văn chương” trong dạy học đọc hiểu ngữ văn; cách thức sử dụng mô hình “Vòng tròn thảo luận văn chương” vào dạy học đọc hiểu văn bản “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân đã cung cấp những tri thức công cụ cần thiết nhất giúp học sinh hiểu được khái niệm, đặc điểm, ưu thế, tiến trình tổ chức mô hình “Vòng tròn thảo luận văn chương” nói chung đồng thời nêu ra các nguyên tắc dạy học cần đảm bảo khi sử dụng mô hình này. Sáng kiến đã tiến hành cụ thể hóa lí luận và cách thức tổ chức mô hình trong một bài học cụ thể - dạy học đọc hiểu văn bản “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân.
  5. v 7.2. Thuyết minh về phạm vi áp dụng sáng kiến: Chương trình Ngữ văn 10 (Chương trình giáo dục phổ thông 2018) được thiết kế trên trục phát triển 4 kĩ năng đọc – viết – nói và nghe cho HS. Sáng kiến “Sử dụng mô hình “Vòng tròn thảo luận văn chương” vào dạy học đọc hiểu văn bản “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân” được áp dụng ở phần Đọc của chủ đề 1. Sức hấp dẫn của truyện kể trong chương trình Ngữ văn 10, tập một. 7.3. Thuyết minh về lợi ích kinh tế, xã hội của sáng kiến: Sáng kiến góp phần nâng cao chất lượng dạy và học ngữ văn trong nhà trường THPT qua việc áp dụng mô hình “Vòng tròn thảo luận văn chương”. Từ đó, phát huy tính tích cực, chủ động, năng lực đọc hiểu của HS để giải quyết những vấn đề trong học tập và cuộc sống. Sáng kiến cũng là nguồn tư liệu tham khảo thiết thực cho GV và HS trong dạy học đọc hiểu thể loại truyện. *Cam kết: Chúng tôi cam đoan những điều khai trên đây là hoàn toàn đúng sự thật và không sao chép hoặc vi phạm bản quyền. Xác nhận của cơ quan Tác giả của sáng kiến Tô Thị Thùy Linh
  6. vi PHIẾU ĐĂNG KÍ SÁNG KIẾN ĐỀ NGHỊ HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP NGÀNH THẨM ĐỊNH 1. Tác giả sáng kiến - Họ và tên: Tô Thị Thùy Linh - Năm sinh: 1990 - Chức vụ: Giáo viên - Giới tính: Nữ - Trình độ đào tạo: Thạc sĩ - Điện thoại: 0979353873 - Nơi công tác: Trường THPT Tiên Du số 1 - Số lần đạt CSTĐ cấp tỉnh: 02 2. Tên sáng kiến đăng kí: Sử dụng mô hình “Vòng tròn thảo luận văn chương” vào dạy học đọc hiểu văn bản “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân. 3. Mục tiêu của sáng kiến: Trang bị cho học sinh một phương pháp đọc hiểu tích cực trên cả hai phương diện lí luận và thực hành, từ đó phát huy năng lực đọc hiểu và tự học. 4. Tính mới của sáng kiến: Sáng kiến giới thiệu một phương pháp học tập tích cực – vòng tròn thảo luận văn chương – nhằm phát huy vai trò chủ thể của học sinh trong quá trình khám phá và lĩnh hội tác phẩm văn học. Đồng thời, sáng kiến đưa ra một cách tiếp cận mới về thể loại truyện, thông qua một văn bản cụ thể là “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân. 5. Đóng góp của sáng kiến cho đơn vị, ngành: Sáng kiến góp phần nâng cao chất lượng dạy và học ngữ văn trong nhà trường THPT qua việc áp dụng mô hình “Vòng tròn thảo luận văn chương”. Từ đó, phát huy tính tích cực, chủ động, năng lực đọc hiểu của HS để giải quyết những vấn đề trong học tập và cuộc sống. Sáng kiến cũng là nguồn tư liệu tham khảo thiết thực cho GV và HS trong dạy học đọc hiểu thể loại truyện. 6. Hiệu quả của sáng kiến khi được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: HS hứng thú, tích cực, chủ động trong quá trình khám phá và lĩnh hội kiến thức, phát huy được các năng lực chung như năng lực giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo cùng các năng lực đặc thù là năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học. Phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến: tại đơn vị người viết sáng kiến công tác. 7. Thời gian xây dựng và hoàn thành sáng kiến: Năm học 2022 - 2023. THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tiên Du, ngày 23 tháng 01 năm 2023 TÁC GIẢ SÁNG KIẾN Tô Thị Thùy Linh
  7. vii QUY ƯỚC VIẾT TẮT - GV: Giáo viên - HS: Học sinh - SGK: Sách giáo khoa - SGV: Sách giáo viên - THPT: Trung học phổ thông - VB: Văn bản
  8. viii MỤC LỤC Phần 1. MỞ ĐẦU 1 1. Mục đích của sáng kiến 1 2. Tính mới và ưu điểm nổi bật của sáng kiến 1 3. Đóng góp của sáng kiến 3 Phần 2. NỘI DUNG 4 Chương 1: THỰC TRẠNG DẠY HỌC TÁC PHẨM “CHỮ NGƯỜI TỬ 4 TÙ” (NGUYỄN TUÂN) TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT HIỆN NAY 1.1.Thuận lợi 4 1.2. Khó khăn 5 Chương 2: NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN 7 2.1. Trang bị cho HS nền tảng lí luận về mô hình “vòng tròn thảo luận 7 văn chương” trong dạy học đọc hiểu ngữ văn 2.1.1. Khái niệm “vòng tròn thảo luận văn chương” 7 2.1.2. Đặc điểm và ưu thế của mô hình “vòng tròn thảo luận văn 8 chương” trong dạy học đọc hiểu 2.1.3. Tiến trình tổ chức “vòng tròn thảo luận văn chương” 13 2.2. Cách thức sử dụng mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” vào 15 dạy học đọc hiểu VB “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) 2.2.1. Các nguyên tắc sử dụng mô hình “vòng tròn thảo luận văn 15 chương” vào dạy học đọc hiểu VB “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) 2.2.2. Tổ chức “vòng tròn thảo luận văn chương” vào dạy học đọc hiểu 20 VB “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) Chương 3. KIỂM CHỨNG CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TRIỂN KHAI 30 CỦA SÁNG KIẾN Phần 3. KẾT LUẬN 46 1.Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến của sáng kiến 46 2. Hiệu quả thiết thực của sáng kiến 46 3. Kiến nghị với các cấp quản lí 46 Phần 4. TÀI LIỆU THAM KHẢO 48 PHỤ LỤC
  9. 1 Phần 1. MỞ ĐẦU 1. Mục đích của sáng kiến Sáng kiến này nghiên cứu tính khả thi của việc hướng dẫn HS lớp 10 đọc hiểu VB “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) bằng mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương”. Sáng kiến trang bị cho HS nền tảng lí luận về mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương”, đề xuất cách thức sử dụng mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” trong giờ dạy đọc hiểu VB “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, nâng cao năng lực đọc hiểu, khả năng tự học của HS. Thiết kế bài soạn thực nghiệm: Dạy học đọc hiểu VB “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) cho HS lớp 10 bằng mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương”. 2. Tính mới và ưu điểm nổi bật của sáng kiến Giáo dục Việt Nam đang bước vào giai đoạn đổi mới sâu sắc, toàn diện từ quan điểm chỉ đạo, chương trình đến mục tiêu giáo dục. Để hiện thực hóa sự đổi mới đó, nhiều GV đã nỗ lực học tập và ứng dụng các phương pháp dạy học tích cực, chuyển từ dạy cái sang dạy cách. Thay vì dạy học theo lối truyền thụ, người thầy là trung tâm, nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học mới được vận dụng để phát huy tính tích cực, chủ động của HS trong việc khám phá và lĩnh hội tri thức như dạy học dự án, dạy học hợp đồng, dạy học hợp tác, khăn trải bàn, mảnh ghép, sơ đồ tư duy Mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” cho đến nay đã có khoảng 40 năm lịch sử nghiên cứu trên thế giới, thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học giáo dục từ những năm 90 của thế kỉ XX. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có tài liệu nào chuyên sâu nghiên cứu về mô hình học tập này. Chúng tôi mới tiếp cận được một số tài liệu mang tính chất gợi dẫn là cuốn Giáo trình Phương pháp dạy học văn bản, NXB Đại học Cần Thơ, 2020 của PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Nam (chủ biên); luận văn Sử dụng mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” vào dạy học đọc hiểu truyện ngắn hiện đại Việt Nam cho học sinh lớp 9 của Nguyễn Phương Thảo, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2020.
  10. 2 Ngoài ra, trong tài liệu hướng dẫn bồi dưỡng giáo viên phổ thông cốt cán của chương trình ETEP, modul 2: “Sử dụng phương pháp dạy học và giáo dục phát triển phẩm chất, năng lực học sinh trung học cơ sở môn Ngữ văn”, vòng tròn thảo luận văn chương cũng được đề cập tới như một hình thức của dạy học hợp tác. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là kiệt tác của đời văn Nguyễn Tuân, một truyện ngắn xuất sắc của văn học hiện đại Việt Nam, được Nguyễn Khải đánh giá là do “thần viết, thần mượn tay người viết”. “Chữ người tử tù” cũng là một tác phẩm quan trọng, được đưa vào giảng dạy ở cả 2 chương trình 2006 (Ngữ văn 11, tập một) và 2018 (Ngữ văn 10, tập một). Bởi vậy mà đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về truyện ngắn này, như các bài nghiên cứu hướng dẫn phân tích tác phẩm của GS Nguyễn Đăng Mạnh, GS Nguyễn Quang Trung, GS Đỗ Kim Hồi in trong các cuốn “Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 11” và “Giảng văn văn học Việt Nam”, các sách thiết kế bài giảng của Phan Trọng Luận, Nguyễn Văn Đường (chương trình 2006), Đinh Thanh Huyền (chủ biên), nhóm tác giả Nguyễn Chí Hòa, Hoàng Thị Hiền Lương, Nguyễn Kim Toại (chương trình 2018) Đây đều là những công trình khoa học nghiên cứu một cách công phu và hệ thống, nêu bật được những giá trị tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm “Chữ người tử tù”. Tuy nhiên, chưa có công trình nào sử dụng mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” vào dạy học đọc hiểu truyện ngắn này. Vì vậy, chúng tôi đã đi đến quyết định lựa chọn đề tài này làm sáng kiến kinh nghiệm của mình. Trong sáng kiến này, chúng tôi cung cấp những tri thức công cụ chính là những kiến thức lí luận cơ bản nhất về mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” để làm cơ sở nền tảng đồng thời, đưa ra những nguyên tắc, cách thức sử dụng mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” trong giờ dạy học đọc hiểu một tác phẩm văn học, thông qua một VB cụ thể là “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân). Sáng kiến Sử dụng mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” vào dạy học đọc hiểu VB “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân được áp dụng thử nghiệm lần đầu tại trường THPT Tiên Du số 1 vào năm học 2022 – 2023.
  11. 3 3. Đóng góp của sáng kiến Ý nghĩa lý luận của đề tài: Giới thiệu một mô hình học tập, phương pháp học tập tích cực trong giờ dạy đọc hiểu văn bản văn học, thông qua đọc hiểu 1 VB truyện. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài: + Nội dung sáng kiến có thể giúp GV có thêm tư liệu phục vụ việc giảng dạy văn bản “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) nói riêng và các VB truyện nói chung. + Cung cấp cho HS một cách đọc hiểu tích cực, chủ động, từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông.
  12. 4 Phần 2. NỘI DUNG Chương 1: THỰC TRẠNG DẠY HỌC TÁC PHẨM “CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ” (NGUYỄN TUÂN) TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT HIỆN NAY 1.1.Thuận lợi Về định hướng mục tiêu cần đạt: Chương trình giáo dục môn Ngữ văn bậc THPT 2018 có mục tiêu về năng lực và phẩm chất cần hình thành, phát triển cho HS một cách cụ thể, rõ ràng cho toàn bài học cũng như từng đơn vị kiến thức phần Đọc – Viết – Nói và nghe. Đối với việc đọc hiểu VB “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân), mục tiêu cần đạt được đề ra như sau: Yêu cầu cần đạt Phân tích yêu cầu cần đạt (SGK) (SGV) (Yêu cầu chung cho cả bài học: (Yêu cầu cụ thể đối với VB Sức hấp dẫn của truyện kể) “Chữ người tử tù”) Về năng lực - Nhận biết và phân tích được - HS nhận biết được lời một số yếu tố của truyện nói người kể chuyện ngôi thứ ba chung và thần thoại nói riêng và lời nhân vật; phân tích như: cốt truyện, không gian, được bối cảnh, tình huống thời gian, nhân vật, lời người kể truyện. chuyện ngôi thứ ba và lời nhân - HS cần khái quát được đặc vật. điểm tính cách của hai nhân - Phân tích và đánh giá được vật Huấn Cao và quản ngục; chủ đề, thông điệp của văn bản; hiểu được chủ đề của tác phân tích được một số căn cứ phẩm. để xác định chủ đề. Về phẩm chất Sống có khát vọng, có hoài bão Góp phần hình thành, bồi và thể hiện được trách nhiệm đắp cho HS tình yêu, sự trân với cộng đồng. trọng cái đẹp và sự tài hoa. Về tác giả và tác phẩm: Nguyễn Tuân là một tác giả lớn của văn học hiện đại Việt Nam. Các em HS lớp 10 đã được làm quen với tác giả này qua VB kí
  13. 5 “Cô Tô” trong chương trình Ngữ văn 6 (Chương trình Giáo dục môn Ngữ văn 2006). Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một kiệt tác của đời văn Nguyễn Tuân, đã được đưa vào giảng dạy trong môn Ngữ văn bậc THPT từ nhiều năm nay. Nguồn tài liệu, công trình nghiên cứu về tác giả Nguyễn Tuân nói chung và VB “Chữ người tử tù” nói riêng rất phong phú là tư liệu quý báu cho HS trong việc khám phá, lĩnh hội nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Về GV và HS: Nhiều GV đã tích cực đổi mới phương pháp, kĩ thuật dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho HS như dạy học nêu vấn đề, dạy học dự án, dạy học hợp đồng, sân khấu hóa tác phẩm văn học Nhiều HS không còn thụ động đón đợi kiến thức từ GV mà đã biết tự tìm tòi, khám phá, tổng hợp tri thức từ nhiều nguồn khác nhau như: mạng internet, nhóm học văn trên facebook, sách, báo 1.2. Khó khăn Về chương trình: Nếu Chương trình Ngữ văn bậc THPT 2006 tổ chức, sắp xếp các bài đọc hiểu VB văn học theo tiến trình lịch sử thì Chương trình 2018 lại tổ chức theo trục thể loại. VB “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) được xếp vào bài học đầu tiên của Ngữ văn 10: Bài 1 – Sức hấp dẫn của truyện kể, đặt sau bài Đọc Tri thức ngữ văn, 3 VB thần thoại (Truyện về các vị thần sáng tạo thế giới: “Thần Trụ Trời”, “Thần Sét”, “Thần Gió”) và 1 VB truyền kì (“Tản Viên từ Phán sự lục” – Nguyễn Dữ). Mục tiêu cần đạt là HS nhận diện và phân tích được một số yếu tố của thể loại truyện nên những thông tin về giai đoạn văn học, hoàn cảnh sáng tác, tác giả không được chú trọng, không được đề cập hoặc đề cập rất sơ sài. Đây là một trở ngại lớn đối với HS trong việc tiếp nhận nội dung VB. Về tác giả và tác phẩm: Nguyễn Tuân là một nhà văn có phong cách tài hoa, độc đáo. Văn Nguyễn Tuân cầu kì, rất kén người đọc. Hơn nữa, VB “Chữ người tử tù” lại viết về những nhân vật của một thời vang bóng, có độ lùi về mặt thời gian cũng như những yếu tố văn hóa nên cũng gây khó khăn cho HS để có thể cảm hiểu sâu sắc vẻ đẹp của nhân vật và thông điệp của tác phẩm.
  14. 6 Về phía GV - HS: “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) là một VB cũ, đã quá quen thuộc với GV Ngữ văn bậc THPT nhưng mục tiêu cần đạt mới yêu cầu GV phải thay đổi phương pháp dạy học, điều chỉnh nội dung bài học so với cách dạy cũ. HS lớp 10 năm học 2022 – 2023 cũng gặp nhiều lúng túng, khó khăn khi học chương trình Ngữ văn 2018 vì bậc trung học cơ sở các em vẫn học theo chương trình 2006. Độ vênh giữa 2 chương trình là điều không tránh khỏi. Cả GV và HS đều là những người “cày vỡ” nên đòi hỏi cao sự chuyên cần, tính cầu thị và cả sự dũng cảm dám “phá bỏ” những lối mòn, thói quen trong dạy và học. Đây là một thách thức không nhỏ với những người ngại đổi mới.
  15. 7 Chương 2: NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN 2.1. Trang bị cho HS nền tảng lí luận về mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” trong dạy học đọc hiểu ngữ văn 2.1.1. Khái niệm “vòng tròn thảo luận văn chương” “Vòng tròn thảo luận văn chương” (Literature circles) là một mô hình tổ chức hoạt động tương tác trong đọc hiểu văn bản văn học. Định nghĩa của H. Daniels (1994) về “vòng tròn thảo luận văn chương” được công nhận rộng rãi và trích dẫn trong nhiều công trình nghiên cứu, tạm dịch: Vòng tròn thảo luận văn chương là những nhóm thảo luận nhỏ, tạm thời của những người đã chọn đọc cùng một câu chuyện, bài thơ, bài báo, hoặc cuốn sách Khi đọc mỗi nhóm quyết định chọn một phần của văn bản (trong hoặc ngoài chương trình), mỗi thành viên chuẩn bị, chịu trách nhiệm những nhiệm vụ cụ thể trong cuộc thảo luận sắp tới, và mọi người tham gia nhóm khi đã có các ghi chú cần thiết để có thể thực hiện nhiệm vụ của mình. Các nhóm sẽ có những cuộc gặp định kỳ, và luân phiên các vai thảo luận theo từng kỳ. Khi hoàn thành một cuốn sách, các thành viên của nhóm lên kế hoạch để chia sẻ những nội dung quan trọng trong quá trình đọc với cộng động lớn hơn rồi tráo đổi thành viên với các nhóm đã hoàn thành khác, chọn ngữ liệu và chuyển tới những vòng tròn thảo luận mới. Một khi các thành viên có thể quản lí, tiến hành thành công những cuộc thảo luận đa chiều, tự lực thì có thể không cần dùng đến các vai thảo luận đã quy ước). Có thể nói, Daniels là nhà nghiên cứu đầu tiên và thành công nhất về mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” cũng như việc ứng dụng nó vào dạy học. Mô hình này được Daniels mô tả là một nhóm thảo luận nhỏ giữa những HS cùng đọc một hoặc một phần văn bản văn chương. Mỗi thành viên trong nhóm đã được giao một “vai” với nhiệm vụ tương ứng trong quá trình đọc. Khi đến với nhóm thảo luận, HS mang theo những ý tưởng và trải nghiệm đọc để chia sẻ với các thành viên khác. Cuộc thảo luận được dẫn dắt và phát triển bởi phản hồi của người đọc về sự kiện, nhân vật trong truyện, kĩ thuật viết của tác giả và về trải nghiệm cá nhân liên quan đến câu chuyện Sau khi đọc xong
  16. 8 một cuốn sách, các thành viên trong nhóm có thể mở rộng phạm vi cuộc thảo luận, trao đổi trong một cộng đồng lớn hơn. Dựa trên nội dung đọc tiếp theo mà người học lựa chọn, lại có những “vòng tròn thảo luận văn chương” mới được hình thành. “Vòng tròn thảo luận văn chương” có mối quan hệ gần gũi với một số mô hình khác như “Trò chuyện về sách” (Book talk), “Nhóm đọc” (Reading groups), “Câu lạc bộ đọc” (Reading clubs) Trong một số trường hợp, chúng được coi là những tên gọi khác nhau dùng để chỉ cùng một mô hình tương tác cho HS trong quá trình dạy học mà Daniels mô tả năm 2002, nhưng cũng có khi lại được sử dụng với ý nghĩa khác nhau. Trong đó, “câu lạc bộ đọc” thường được đem ra so sánh với “vòng tròn thảo luận văn chương”. Cả hai đều là những mô hình khuyến khích sự lựa chọn, tiếng nói cá nhân và động lực đọc cho người học. Ở đó, HS được tổ chức thành những nhóm để tham gia các cuộc thảo luận về một tác phẩm hoặc đoạn truyện với tính ràng buộc cao (vì HS là người làm chủ cuộc thảo luận). Tuy nhiên, điểm khác biệt rõ nét nhất có thể nhận thấy ở hai mô hình này đó là “vòng tròn thảo luận văn chương” thường gắn người học với các vai (có nhiệm vụ nhất định). Thay vào đó, “câu lạc bộ đọc” lại đòi hỏi mỗi HS đều phải có trách nhiệm đưa ra câu hỏi và ý tưởng để thảo luận. 2.1.2. Đặc điểm và ưu thế của mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” trong dạy học đọc hiểu * Đặc điểm của mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” Khi vận dụng mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” vào dạy học, GV cần quan tâm đến một số đặc điểm cơ bản của mô hình tổ chức hoạt động nhóm này. Để đảm bảo mục tiêu về phẩm chất, năng lực cũng như không làm mất đi bản chất của “vòng tròn thảo luận văn chương”, GV cần lưu ý đến điều kiện hình thành các nhóm thảo luận, nội dung văn bản được lựa chọn, hoạt động cụ thể của các thành viên trong nhóm, tính chất của cuộc thảo luận, vai trò của GV và HS trong quá trình tổ chức dạy học, không khí chung của giờ học, cách thức đánh giá
  17. 9 Theo Daniels (2002), “vòng tròn thảo luận văn chương” có những đặc điểm cơ bản sau: 1. Học sinh tự chọn tài liệu để học. 2. Những nhóm nhỏ, được thành lập tạm thời, dựa trên những cuốn sách mà học sinh lựa chọn. 3. Các nhóm khác nhau đọc những cuốn sách khác nhau. 4. Các nhóm gặp theo lịch trình đều đặn, có thể dự đoán để thảo luận về việc đọc của mình. 5. Học sinh sử dụng các ghi chú (viết hay vẽ) để chỉ dẫn/ định hướng việc đọc và việc thảo luận. 6. Các chủ đề thảo luận do học sinh đề xuất. 7. Nhóm gặp là để có những cuộc trao đổi mở, tự nhiên về các cuốn sách, vì vậy, chấp nhận các câu hỏi mở, quan hệ cá nhân, sự lạc đề. 8. Giáo viên có vai trò cố vấn, không phải là thành viên của nhóm hay người dạy. 9. Việc đánh giá được thực hiện qua sự quan sát của giáo viên và tự đánh giá của học sinh. 10. Tinh thần khôi hài vui vẻ tràn ngập phòng học. 11. Khi các cuốn sách được đọc xong, người đọc chia sẻ với bạn cùng lớp, và những nhóm mới được hình thành dựa trên những lựa chọn đọc mới. Ngoài ra, Noe và Johnson (1999) trong cuốn Getting started with literature circles so sánh những đặc điểm của mô hình học đọc hiểu này với những đặc điểm không phải của nó để làm nổi bật bản chất riêng của mô hình như sau: Vòng tròn thảo luận văn chương Vòng tròn thảo luận văn chương là không phải là Tập trung vào phản hồi của người đọc Tập trung vào GV và VB
  18. 10 Là một phần của chương trình đọc Toàn bộ chương trình dạy đọc viết quy định Các nhóm hình thành dựa trên lựa Các nhóm do GV phân công và chọn sách hình thành duy nhất dựa trên khả năng của HS Được cấu tạo để phát huy tính độc lập, “Thời gian nói” không được xác tính trách nhiệm, quyền sở hữu của định, không được điều khiển, không HS có trách nhiệm Được định hướng chủ yếu bởi sự thấu Được định hướng chủ yếu bởi các hiểu và những câu hỏi của HS câu hỏi của GV hay câu hỏi từ chương trình Là ngữ cảnh để ứng dụng các kĩ năng Là nơi để luyện tập kĩ năng đọc và viết Linh động và uyển chuyển, không bao Gắn chặt với một công thức mang giờ có hai lần giống nhau tính quy tắc Để hướng dẫn HS cách đọc, các nhà nghiên cứu và GV đã đề xuất một số “vai” có thể giao cho HS phụ trách trong quá trình tham gia “vòng tròn thảo luận văn chương”. Tuy nhiên, tên gọi và cách hiểu của các vai này khá linh hoạt, có thể thay đổi tùy theo người sử dụng. Các công trình nghiên cứu của Daniels đã đưa ra một số vai như sau: - Discussion director (tạm dịch: Người điều khiển/ Người thiết kế câu hỏi): HS chịu trách nhiệm tạo ra một số câu hỏi thảo luận để tạo cuộc trò chuyện về tác phẩm. Đây có thể là những câu hỏi về nhân vật, cốt truyện, chủ đề, Nó cũng là cách để người điều khiển đảm bảo các thành viên trong nhóm hoàn thành nhiệm vụ. - Literature luminary (tạm dịch: Người phát hiện điểm cô đúc ngời sáng): HS sẽ làm nổi bật những điều đáng nhớ, thú vị hoặc những trích dẫn và đoạn
  19. 11 văn có giá trị từ văn bản và dẫn dắt các thành viên quay lại những khoảnh khắc cụ thể này. - Connector (tạm dịch: Người tạo kết nối): Công việc của người kết nối là liên hệ văn bản này với thế giới thực thông qua văn hóa đại chúng, lịch sử hoặc văn học khác. Đó là những gì HS cảm thấy có liên quan và quan trọng đối với nhóm để theo dõi. - Artful artist (tạm dịch: Người nghệ sĩ): Vai này cung cấp sự tự do sáng tạo cho HS, người sẽ phải trình bày tác phẩm theo cách đồ họa. HS có thể tạo áp phích, phim, búp bê, tác phẩm điêu khắc với khả năng sáng tạo là vô tận. - Character captain (tạm dịch: Người khám phá nhân vật): Ở đây, trọng tâm hiển nhiên là các nhân vật. HS sẽ chọn một nhân vật để tìm hiểu trong cuốn truyện (tiểu thuyết). HS chọn trích dẫn hoặc chi tiết mô tả hành trình mà nhân vật đi xuyên suốt tác phẩm. - Word wizard (tạm dịch: Người khám phá từ vựng): Vai này rất hữu ích cho việc nghiên cứu từ vựng. HS lướt qua văn bản và khoanh tròn các từ không quen thuộc (những từ này có thể là từ khó hoặc từ đặc trưng cho tác phẩm). Sau đó HS sẽ xác định những từ này và giải thích một vài từ (5-10) cho nhóm. - Researcher (tạm dịch: Người nghiên cứu): HS nghiên cứu lịch sử về cuốn sách, tác giả, bối cảnh, để làm sáng tỏ thêm sự hiểu biết của các nhóm về tác phẩm. - Summarizer (tạm dịch: Người lược thuật): HS tóm tắt truyện, chú ý không kể lại câu chuyện mà chỉ tập trung vào các sự việc chính, những nội dung, thông điệp quan trọng của tác phẩm. Trong các vai nói trên, H. Daniels đề xuất sử dụng cố định bốn vai đầu tiên (Người thiết kế câu hỏi, Người tìm điểm cô đúc ngời sáng, Người tạo kết nối, Người nghệ sĩ). Bởi các vai này đòi hỏi người đọc thâm nhập sâu vào văn bản và phát huy tối đa khả năng sáng tạo trong từng vai. Tuy nhiên, trong thực tiễn dạy học, tất cả các vai này đều có thể được vận dụng. GV cũng cần cân nhắc, lựa chọn các vai và thiết kế phiếu chỉ dẫn phù hợp để tổ chức “vòng tròn
  20. 12 thảo luận văn chương” trong dạy học đọc hiểu, miễn là tạo cho HS cơ hội đọc kĩ, đọc sâu văn bản và tăng hứng thú khi tham gia các vai. * Ưu thế của mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” trong dạy học đọc hiểu Với những đặc điểm cơ bản trên, mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” có vai trò nổi bật trong quá trình dạy đọc hiểu văn bản theo định hướng phát triển năng lực. HS phải thường xuyên phản hồi những cảm xúc, suy nghĩ, đánh giá, nghi vấn của mình về những gì mình đã đọc. Sự thấu hiểu và phản hồi của người học là yếu tố chính dẫn dắt cuộc thảo luận, cho HS nhận thức về tính độc lập, trách nhiệm của người đọc. Bên cạnh đó, mô hình dạy học tương tác cho HS không gian để bộc lộ ý tưởng, chia sẻ cảm xúc và có những trao đổi một cách cởi mở, tự nhiên. Khi GV chú trọng phát triển kĩ năng cho HS một cách toàn diện (phân tích, cảm thụ, đánh giá một tác phẩm văn chương) thì mới có thể phát huy vai trò chủ thể, tính tích cực và sáng tạo của HS. Vận dụng mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” có khả năng hé mở một cánh cửa mới cho giờ dạy học đọc hiểu truyện ngắn cho HS lớp 10, giúp HS nhìn sâu hơn vào thế giới nghệ thuật của VB. Điều đó có nghĩa là hình thức vòng tròn này giúp người học có cơ hội trải nghiệm hành động đọc, có hứng thú và thực sự được nhập thân vào VB, tương tác với VB một cách tích cực. Có thể nhận thấy rằng sự tương tác với các chủ thể khác khi tham gia “vòng tròn thảo luận văn chương” có ý nghĩa to lớn đối với người học trong việc phát triển năng lực đọc hiểu VB. Tương tác giữa người đọc với văn bản, tương tác giữa người đọc với người đọc góp phần làm nên những ưu thế của mô hình này khi sử dụng trong dạy học đọc hiểu. Thứ nhất, qua ngôn ngữ lời nói, GV và HS xây dựng được kiến thức. Những luận điểm quan trọng của những nhà ngôn ngữ lớn như F. de Saussure, N. Chomsky cũng không rời khỏi mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy. Ngôn ngữ là nền tảng của tư duy và do đó, cũng là một phương tiện cho hoạt động đọc hiểu. Mỗi một người đọc với môi trường, vốn sống, trải nghiệm khác
  21. 13 nhau sẽ có những cách tiếp cận và tư duy khác nhau về VB. Qua quá trình tương tác giữa các thành viên trong nhóm đọc tạo ra cơ hội nảy sinh những ý tưởng, tư duy mới và đòi hỏi HS huy động tri thức nền cũng như tham gia tích cực vào việc đọc. Như vậy, mô hình hoạt động tương tác như “vòng tròn thảo luận văn chương” làm giàu cho mỗi cá nhân chủ thể đọc và quan trọng là thúc đẩy HS quay trở lại đọc kĩ VB nhiều lần. Thứ hai, sử dụng mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” trong dạy học đọc – hiểu đòi hỏi HS phải vận dụng nhiều kĩ năng sẵn có, thúc đẩy chúng phát triển đến một mức độ cao hơn, hoặc dần hình thành những kĩ năng mới. Để đạt được mục tiêu này, GV cần giúp HS hiểu rõ mục đích, hình thức và nội dung của mô hình dạy học. Việc thực hiện thường xuyên mô hình dạy học đọc – hiểu theo hướng phát triển năng lực dần hình thành cho HS thói quen và phương pháp đọc hiểu đề cao tính tích cực, chủ động. Các năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực thuyết trình của HS có điều kiện phát triển. Thứ ba, những mô hình dạy học hợp tác đã chứng tỏ ưu thế trong rèn luyện kĩ năng đọc hiểu. “Vòng tròn thảo luận văn chương” mở rộng phạm vi đọc của HS, với sự tham gia của nhiều thành viên như các HS thuộc những nhóm năng lực khác nhau. Qua các hoạt động đọc, HS có những trải nghiệm mới mẻ, lí thú, khơi gợi suy nghĩ, tìm tòi, đánh giá vấn đề ở nhiều khía cạnh. Những ý kiến đa chiều, những cuộc trao đổi thú vị, giàu ý nghĩa cho những khả năng mà HS khó tìm thấy được trong những kiểu tương tác mà GV là người quyết định hoàn toàn. Do đó, mô hình “vòng tròn thảo luận văn chương” có khả năng tạo ra động cơ, hứng thú học tập và đạt hiệu quả bởi nó phù hợp với lứa tuổi HS có đặc tính tương tác xã hội cao. 2.1.3. Tiến trình tổ chức “vòng tròn thảo luận văn chương” Daniels (2002) đề xuất tiến trình tổ chức “vòng tròn thảo luận văn chương” cho hai đối tượng HS: HS chưa có kinh nghiệm làm việc hợp tác và HS đã có kinh nghiệm làm việc hợp tác.